Theo số liệu thống kê thực tế từ Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản trong tháng 9/2017 đạt 2,23 tỷ USD, thấp hơn gần 100 triệu USD so với con số ước tính sơ bộ trước đó, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 9 tháng đầu năm 2017 lên 19,23 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 12,5% tỷ trọng trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Trong đó, các mặt hàng rau quả, cao su, gạo, hạt điều, thủy sản… đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao từ 20% trở lên.
Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng của nhiều mặt hàng chủ lực
Trong số những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sự phục hồi mạnh mẽ, không thể không nhắc đến mặt hàng gạo với sự bứt phá mạnh ngoài dự kiến nhờ sự tăng trưởng tại các thị trường Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Bangladesh, theo cả hợp đồng tập trung và hợp đồng thương mại. Trong tháng 9/2017, khối lượng gạo xuất khẩu đạt tới 516.000 tấn với trị giá đạt 236 triệu USD, nâng xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm lên 4,62 triệu tấn, đạt 2,04 tỷ USD, tăng 22% về khối lượng và 20,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Với cơ hội lớn mở ra từ các thị trường, mới đây, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã nâng mục tiêu xuất khẩu gạo năm nay lên mức 5,6 triệu tấn, thay vì con số 5,2 triệu tấn được đưa ra trong tháng 7 vừa qua.
Ngoài ra, cao su là mặt hàng đứng đầu mức tăng trưởng của nhóm nông sản, với tốc độ tăng trưởng 49,2% lên 1,62 tỷ USD, gần bằng kim ngạch xuất khẩu cao su trong cả năm 2016 (1,69 tỷ USD). Xuất khẩu rau quả cũng tăng mạnh 43,4% lên 2,626 tỷ USD với nhiều thị trường tăng mạnh, đứng đầu là Nhật tăng 64,6% tiếp đến là UAE, Trung Quốc, Nga, Mỹ…
Tuy nhiên, xuất khẩu hạt tiêu trong 9 tháng qua mặc dù tăng mạnh về lượng (tăng 23,3%) nhưng do giá xuất khẩu giảm mạnh nên tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 968 triệu USD, giảm tới 19% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng này trong 9 tháng qua đã giảm gần 35%, ghi nhận mức giảm kỷ lục của ngành hồ tiêu trong vòng 5 - 6 năm qua. Đây được đánh giá là hệ quả sau giai đoạn tăng trưởng nóng trong việc mở rộng diện tích trồng tiêu, dẫn đến nguồn cung tăng mạnh.
Trong 9 tháng đầu năm 2017, cùng với nhu cầu tiêu thụ tại nhiều đối tác chính gia tăng trở lại, có thể nói đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng khả quan của nhóm hàng nông lâm, thủy sản là do công tác phát triển và mở cửa thị trường xuất khẩu, đặc biệt là từ kết quả của các đoàn ngoại giao cấp cao của Việt Nam thời gian qua.
Trong đó, tiêu biểu như việc hàng rau quả của Việt Nam đã thâm nhập được vào nhiều thị trường có yêu cầu chất lượng cao như Mỹ (đã cho phép nhập khẩu thanh long ruột trắng, ruột đỏ, chôm chôm, nhãn, vải); Nhật Bản (thanh long ruột trắng, ruột đỏ, xoài), Hàn Quốc (thanh long ruột trắng, ruột đỏ, xoài), New Zealand (xoài, thanh long ruột trắng và đỏ), Australia (vải, xoài, thanh long),…
Tình hình xuất khẩu hàng hóa tháng 9 và 9 tháng năm 2017
(Đơn vị tính: Lượng: nghìn tấn; Trị giá: triệu USD)
Nhóm/Mặt hàng chủ yếu |
Tháng 9 năm 2017 |
So với tháng 8/2017 (%) |
So với tháng 9/2016 (%) |
9 tháng năm 2017 |
So với 9 tháng năm 2016 (%) |
|||||
Lượng |
Trị giá |
Lượng |
Trị giá |
Lượng |
Trị giá |
Lượng |
Trị giá |
Lượng |
Trị giá |
|
Tổng KNXK |
|
19.342 |
|
-2,1 |
|
25,9 |
|
154.321 |
|
20 |
KNXK nông, lâm, thủy sản |
|
2.235 |
|
-10,6 |
|
11,4 |
|
19.229,0 |
|
18,2 |
Hàng thủy sản |
|
787 |
|
-6,5 |
|
19,6 |
|
5.993 |
|
19,8 |
Hàng rau quả |
|
280 |
|
-13,1 |
|
14 |
|
2.626 |
|
43,4 |
Hạt điều |
33 |
334 |
-11 |
-12 |
5 |
21,7 |
258 |
2.561 |
0,4 |
25,6 |
Cà phê |
80 |
187 |
-16,3 |
-15,7 |
-38,3 |
-26,7 |
1.103 |
2.523 |
-21,2 |
0,4 |
Chè |
12 |
21 |
-11,9 |
-10 |
4,3 |
4,8 |
103 |
164 |
12,1 |
11,4 |
Hạt tiêu |
14 |
65 |
-33,1 |
-29,6 |
18,3 |
-29,2 |
181 |
968 |
23,3 |
-19 |
Gạo |
516 |
236 |
-21,6 |
-17,3 |
7,1 |
9,6 |
4.618 |
2.043 |
22 |
20,1 |
Sắn và các sản phẩm từ sắn |
309 |
84 |
8,5 |
17,9 |
70,2 |
53,3 |
2.897 |
728 |
4,9 |
-2,8 |
Cao su |
150 |
241 |
-12,4 |
-8,4 |
0,4 |
26,4 |
956 |
1.623 |
10,6 |
49,2 |
Sắn |
109 |
20 |
-18,8 |
-14,8 |
289,4 |
272 |
1.234 |
208 |
-2,9 |
-6,4 |
Xuất khẩu sang hầu hết các thị trường chủ lực đều đạt tốc độ tăng trưởng khả quan
Về thị trường xuất khẩu, trong 9 tháng đầu năm 2017, nhìn chung tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thùy sản sang các thị trường chủ lực đều ghi nhận những diễn biến tích cực, đặc biệt là các thị trường có các hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam. Điều này thể hiện rõ chủ trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu theo quan điểm nhất quán của Chính phủ.
Trong 9 tháng qua, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất với sự tăng trưởng rất mạnh của hàng loạt mặt hàng, đạt kim ngạch 5,6 tỷ USD, tăng tới 39,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 29,2% tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng này sang Trung Quốc. Trong đó, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng tới 65% so với cùng kỳ năm trước, gạo tăng 31%, rau quả tăng 53% hay cao su tăng 66%. Riêng đối với mặt hàng rau quả, 70% lượng xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong thời gian qua là sang thị trường Trung Quốc và kim ngạch xuất khẩu liên tục có xu hướng tăng trong thời gian gần đây. Năm 2016 đạt 1,739 tỷ USD, chiếm trên 70,7% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam và 9 tháng đầu năm 2017 đạt gần 2 tỷ USD, chiếm tới 76% tỷ trọng trên tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả, cao hơn nhiều so với tỷ trọng của năm 2016 và dự kiến sẽ đạt mức 2,6 tỷ USD trong cả năm 2017.
Trung Quốc là thị trường rất lớn, bên cạnh đó lại rất gần về mặt địa lý đối với Việt Nam, vì vậy rất thuận lợi cho việc xuất khẩu của ta, đặc biệt là với đặc thù của các mặt hàng như nông sản. Trong thời gian tới, việc thị trường Trung Quốc ngày càng phát triển và yêu cầu cao hơn với các biện pháp tăng rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa nông sản của Việt Nam đòi hỏi Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu để đảm bảo những điều kiện kiểm soát của các nhà nhập khẩu. Bên cạnh đó, xu hướng tăng giá của đồng Nhân dân tệ sẽ phần nào hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.
Xuất khẩu sang thị trường EU cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng khá với kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm đạt 3,33 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 17,3% tỷ trọng trên tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thủy sản và là khu vực thị trường xuất khẩu nhóm hàng này lớn nhất của nước ta. Trong đó, xuất khẩu thủy sản đạt kim ngạch cao nhất với khoảng 1,1 tỷ USD, tăng gần 18% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 17% tỷ trọng trên tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Đây được đánh giá là kết quả tương đối tích cực nếu đặt trong bối cảnh trong năm 2013, hàng nông sản Việt Nam đã bị hạn chế xuất khẩu vào thị trường này do bị phát hiện vi phạm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, cùng với những tín hiệu tích cực trên thì nhóm doanh nghiệp Việt đang bị xếp vào nhóm có nguy cơ vướng các rào cản kỹ thuật liên quan đến tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là nhóm doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm trái cây tươi và rau gia vị. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định, bền vững khi xuất khẩu vào thị trường này, doanh nghiệp phải đảm bảo tiêu chuẩn trồng rau trong nhà lưới, có truy xuất nguồn gốc, có chứng nhận quốc tế về kiểm định thực vật. Đặc biệt, EU khuyến cáo nên tuân thủ quy trình VietGAP để giảm thiểu nguy cơ rau củ, quả, trái cây nhiễm bệnh dịch hại.
Trong khi đó, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang thị trường Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2017 tăng chậm lại đáng kể trong bối cảnh hàng loạt các rào cản thương mại từ thị trường này được dựng lên, gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang Mỹ 9 tháng qua chỉ đạt 2,62 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong 7 tháng đầu năm 2017, Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã có 32 lệnh cảnh báo đối với doanh nghiệp Việt Nam có hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ, do doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời, chưa thích ứng được với thay đổi chính sách nhập khẩu của Mỹ. Ngoài ra, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng đang trở thành vấn đề nóng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Mới đây nhất, Mỹ đã đưa ra quy định về chương trình giám sát thủy hải sản nhập khẩu và trở thành thị trường nhập khẩu thủy hải sản thứ hai trên thế giới cùng với EU áp dụng chương trình này. Như vậy, từ 1/1/2018, tức chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa, Chương trình Giám sát nhập khẩu thủy sản vào Mỹ (SIMP) sẽ bắt đầu có hiệu lực. Quy định mới này đang khiến cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu thủy, hải sản vào Mỹ lo lắng khi thời gian chuẩn bị thực hiện không còn nhiều và nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được quy định mới do Mỹ đưa ra, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu thủy sản sang thị trường này trong thời gian tới. Hiện Việt Nam là một trong 15 đối tác thương mại nông nghiệp hàng đầu của Mỹ với những nhóm sản phẩm chính: thủy sản, các loại hạt quả hạch, trái cây, rau củ, cà phê, gia vị, mật ong, lúa gạo, ngũ cốc và thức ăn thú nuôi. Tuy nhiên, giá xuất khẩu nông sản của nước ta chỉ bằng từ 60 – 65% giá nông sản thế giới do còn nhiều hạn chế về chất lượng. Đây cũng là lý do khiến trong 9 tháng qua hàng loạt lô hàng xuất khẩu sang Mỹ không thể nhập cảng hoặc bị trả về.
Trong 3 tháng cuối năm, mặc dù nông, lâm, thủy sản được xác định tiếp tục là một trong những mũi nhọn góp phần quan trọng trong tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của cả năm 2017, tuy nhiên để xuất khẩu nhóm hàng này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan, về phía các cơ quan quản lý cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất trong nước và cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Ngoài ra, cần hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các hàng rào về tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng của nước nhập khẩu, tận dụng lợi thế cam kết từ các hiệp định thương mại, đẩy nhanh tiến độ hoàn tất thủ tục pháp lý mở cửa thị trường đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu, cũng như phối hợp tổ chức xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm để mở rộng hơn nữa các thị trường tiềm năng. Mặt khác, về phía các doanh nghiệp cũng cần nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu và tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu (đặc biệt là nông sản, thủy sản) thâm nhập vào các thị trường mới.
Thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 9 tháng đầu năm 2017
Thị trường |
Tháng 9/2017 |
SS tháng 8/2017 |
SS tháng 9/2016 |
9 tháng/2017 |
SS 9 tháng/2016 |
Tỷ trọng trên tổng KNXK nhóm NLTS |
Nghìn USD |
(%) |
(%) |
Nghìn USD |
(%) |
(%) |
|
Trung Quốc |
718.575 |
-3,1 |
31,7 |
5.611.204 |
39,6 |
29,2 |
EU |
375.935 |
-10,8 |
10,9 |
3.333.159 |
13,2 |
17,3 |
Hà Lan |
102.239 |
-11,1 |
45,4 |
731.951 |
34,7 |
3,8 |
Đức |
65.840 |
1,3 |
-9,7 |
675.371 |
-1,3 |
3,5 |
Anh |
52.313 |
-2,1 |
24,1 |
398.690 |
16,4 |
2,1 |
Italia |
38.814 |
-18,8 |
15,9 |
382.465 |
16,0 |
2,0 |
Tây Ban Nha |
21.606 |
-19,4 |
-26,1 |
269.249 |
-7,4 |
1,4 |
Bỉ |
25.891 |
-16,5 |
13,3 |
256.393 |
25,5 |
1,3 |
Pháp |
20.370 |
-13,5 |
-4,5 |
186.675 |
4,2 |
1,0 |
Mexico |
13.674 |
-29,9 |
-28,9 |
152.626 |
7,5 |
0,8 |
Thổ Nhĩ Kỳ |
6.083 |
-12,8 |
57,3 |
56.186 |
59,4 |
0,3 |
Bồ Đào Nha |
7.730 |
15,5 |
32,5 |
55.595 |
6,4 |
0,3 |
Đan Mạch |
7.386 |
-33,8 |
46,7 |
53.123 |
92,7 |
0,3 |
Ba Lan |
4.129 |
-30,2 |
-37,8 |
47.498 |
-4,3 |
0,2 |
Hy Lạp |
2.556 |
13,4 |
15,7 |
18.801 |
-17,3 |
0,1 |
Rumani |
2.686 |
29,9 |
113,6 |
15.154 |
24,2 |
0,1 |
Thụy Điển |
1.418 |
-7,7 |
18,8 |
12.127 |
-7,1 |
0,1 |
Cộng Hoà Séc |
2.138 |
39,7 |
101,2 |
10.872 |
16,2 |
0,1 |
Phần Lan |
217 |
|
|
2.081 |
243,7 |
0,0 |
Mỹ |
287.051 |
-9,8 |
-7,1 |
2.625.666 |
6,0 |
13,7 |
Asean |
174.058 |
-22,6 |
-0,4 |
1.401.341 |
1,8 |
7,3 |
Malaysia |
59.433 |
-6,6 |
75,6 |
423.337 |
28,0 |
2,2 |
Philippin |
51.110 |
-41,6 |
-34,8 |
400.213 |
11,6 |
2,1 |
Thái Lan |
40.783 |
-16,9 |
-2,0 |
361.209 |
7,7 |
1,9 |
Singapore |
16.123 |
-11,2 |
5,0 |
150.778 |
2,5 |
0,8 |
Indonesia |
4.606 |
-10,5 |
29,3 |
52.208 |
-72,6 |
0,3 |
Brunei |
1.207 |
13,1 |
-25,8 |
7.385 |
-24,6 |
0,0 |
Lào |
795 |
128,9 |
84,0 |
6.210 |
42,6 |
0,0 |
Nhật Bản |
152.293 |
-9,0 |
11,0 |
1.270.359 |
23,1 |
6,6 |
Hàn Quốc |
85.088 |
-14,0 |
16,1 |
776.866 |
25,7 |
4,0 |
Australia |
36.902 |
15,4 |
-3,1 |
277.500 |
-1,7 |
1,4 |
Canada |
39.214 |
-10,9 |
25,3 |
275.577 |
15,7 |
1,4 |
Nga |
28.153 |
-22,2 |
-19,6 |
273.627 |
8,2 |
1,4 |
Ấn Độ |
28.047 |
-21,5 |
-1,3 |
244.011 |
-6,4 |
1,3 |
Đài Loan |
24.773 |
-14,5 |
18,5 |
207.228 |
14,2 |
1,1 |
Hồng Kông |
19.892 |
4,8 |
5,2 |
165.607 |
-5,2 |
0,9 |
UAE |
14.934 |
-23,1 |
8,7 |
163.641 |
-1,9 |
0,9 |
Gana |
35.814 |
53,9 |
54,1 |
152.808 |
-19,4 |
0,8 |
Ixraen |
9.293 |
-18,7 |
0,1 |
110.319 |
40,1 |
0,6 |
Pakixtan |
10.693 |
-30,9 |
-33,9 |
105.951 |
-12,5 |
0,6 |
Angiêri |
9.229 |
7,0 |
-29,7 |
105.069 |
11,7 |
0,5 |
Bangladesh |
3.712 |
-61,5 |
|
99.406 |
|
0,5 |
Braxin |
9.334 |
7,7 |
63,2 |
90.163 |
58,1 |
0,5 |
Bờ Biển Ngà |
2.783 |
-86,2 |
369,2 |
89.993 |
31,2 |
0,5 |
Ai Cập |
5.718 |
-18,9 |
-18,4 |
68.704 |
-23,8 |
0,4 |
Ả Rập Xê út |
5.915 |
1,4 |
11,3 |
51.299 |
5,2 |
0,3 |
Colombia |
4.155 |
4,3 |
-5,5 |
42.354 |
-1,5 |
0,2 |
Irắc |
1.253 |
16,1 |
14,3 |
41.627 |
377,4 |
0,2 |
New Zealand |
4.187 |
-23,7 |
-15,9 |
35.319 |
14,4 |
0,2 |
Thụy Sỹ |
2.834 |
-16,1 |
11,8 |
32.054 |
-6,0 |
0,2 |
Nam Phi |
2.658 |
-9,6 |
-45,5 |
23.874 |
-48,0 |
0,1 |
Ukraina |
3.448 |
-1,6 |
61,8 |
23.267 |
0,0 |
0,1 |
Campuchia |
1.855 |
0,0 |
59,5 |
12.166 |
-4,2 |
0,1 |
Côoét |
1.291 |
37,1 |
-19,3 |
10.421 |
-16,2 |
0,1 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Địa chỉ: 14 Châu Văn Tiếp, phường 2, TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng