Trong những năm vừa qua, cùng với sự mở rộng không ngừng của thị trường xuất khẩu hàng nông sản, thị trường nông sản nội địa cũng ghi nhận những bước phát triển nhanh chóng, là kênh tiêu thụ quan trọng của hàng loạt mặt hàng nông sản chủ lực như gạo, thịt, trứng, cá, tôm, rau quả… Mặc dù các mặt hàng nông sản của Việt Nam đã ngày càng đáp ứng tốt hơn thị trường trong nước, nhưng đến thời điểm hiện tại nhìn chung vẫn còn nhiều “nút thắt” gây khó khăn cho việc tiêu thụ nông sản trên thị trường này.

Nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản tại thị trường nội địa vẫn ở mức cao

Đối với mặt hàng gạo, tính đến năm 2016, tiêu dùng gạo bình quân đầu người cả nước đạt 8,5 kg/người/tháng. Tính riêng khu vực thành thị, mức tiêu thụ chỉ đạt 7,2 kg/người/tháng, trong khi ở nông thôn là 9,5 kg/người/tháng. Xu hướng giảm lượng tiêu dùng gạo đang diễn ra trong thời gian qua. Nếu như trong khoảng 10 năm trước, lượng tiêu thụ gạo bình quân đầu người ở mức khoảng 150 kg/người/năm thì đến nay, con số này đã giảm xuống còn 136 kg/người/năm.

Đối với trái cây, tiêu thụ trái cây tại thị trường nội địa trong thời gian qua tăng mạnh, đặc biệt tại khu vực thành thị. Trong đó, tính riêng tiêu thụ trái cây nội địa hiện chiếm khoảng 85- 90% tổng sản lượng sản xuất và trồng trọt, xuất khẩu mới chỉ chiếm 10- 15%.Các sản phẩm trái cây trong nước được ưa chuộng nhất là sơ ri, thanh long, bơ, xoài cát, sầu riêng, măng cụt,… nhờ giá cả phù hợp với túi tiền của đa số người tiêu dùng. Bên cạnh đó, lượng trái cây nhập khẩu cũng không ngừng tăng lên trong thời gian qua. Theo đó, kim ngạch nhập khẩu hàng rau quả trong 9 tháng năm 2017 đạt 1,15 tỉ USD, tăng 78,2% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó nhập khẩu trái cây tới 809 triệu USD, tăng hơn hai lần so với cùng kỳ năm trước.

Đối với sản phẩm chăn nuôi, hiện chủ yếu các sản phẩm chăn nuôi để phục vụ thị trường nội địa. Theo Cục Chăn nuôi, tiêu thụ bình quân sản phẩm thịt hơi của Việt Nam năm 2016 khoảng 54,1 kg/người/năm. Tiêu dùng các loại thịt của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên, bình quân trong giai đoạn 2010 – 2016, tốc độ tăng tiêu dùng đạt khoảng 2%/năm, năm 2016 tăng 3,84% trong đó thịt lợn chiếm tỷ lệ lớn 70%; tiêu dùng thịt gà và thịt bò mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng tăng ổn định.Bên cạnh sản lượng trong nước tăng, nhập khẩu thịt gia súc, gia cầm cũng tăng.

Đối với sản phẩm thủy sản, tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt cả nước đạt khoảng 6 triệu tấn/năm. Trong đó, dùng cho chế biến xuất khẩu khoảng 2,5 triệu tấn, chế biến cho tiêu thụ trong nước khoảng 500 ngàn tấn, tiêu dùng thủy sản tươi sống khoảng 1,6 – 1,8 triệu tấn/năm, số còn lại được dùng làm thức ăn chăn nuôi và một số mục đích khác.

Doanh nghiệp trong nước vẫn gặp khó trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa

Mặc dù với lượng tiêu thụ sản phẩm lớn, tuy nhiên việc tiêu thụ các sản phẩm nông sản trong thị trường nội địa vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn. Về phía nhà sản xuất luôn phải đối mặt với tình trạng “được mùa, mất giá”; nhà phân phối bị động vì hàng hóa cung ứng lệ thuộc vào mùa vụ, thời tiết. Về phía người tiêu dùng phải chi trả quá cao so với giá gốc trong khi hàng nông sản thiếu sự kiểm soát chất lượng. Các chuỗi giá trị nông sản nội địa hiện có đặc điểm chung là chuỗi dài, lực lượng trung gian thương mại quy mô nhỏ, chưa được tổ chức và quản lý tập trung, dẫn đến độ trễ về thời gian và chất lượng trao đổi thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng lớn.Cùng với những khó khăn chung, các mặt hàng nông sản chủ lực phải đối mặt với một số tồn tại như sau:

+ Mặt hàng gạo: Theo quy định, gạo xuất khẩu được áp thuế giá trị gia tăng (VAT) 0% trong khi gạo sản xuất, tiêu dùng trong nước phải chịu mức thuế suất 5%. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, lượng gạo tiêu thụ trong thị trường nội địa bị áp thuế VAT 5% chỉ chiếm khoảng 15% lượng gạo sản xuất, phần còn lại qua kênh thương lái trôi nổi không chịu thuế. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp có đầu tư với nông dân làm gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa phải trả thuế VAT đầy đủ, rất khó cạnh tranh với thương lái và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chất lượng kém hơn.Đó là lý do vì sao không ít doanh nghiệp nỗ lực khai thác thị trường ngay tại chỗ, xây dựng vùng nguyên liệu, gạo được đóng túi bán tại các cửa hàng, đại lý phân phối, siêu thị, nhưng hiệu quả còn hạn chế. Trong bối cảnh xuất khẩu ngày càng khó khăn, việc Nhà nước tham gia bằng việc tháo gỡ những vướng mắc như thuế VAT là điều cần sớm được giải quyết, để người tiêu dùng trong nước tiếp cận ngày càng nhiều đối với gạo đảm bảo về chất lượng và an toàn thực phẩm.   

+ Đối với mặt hàng thủy sản, ngoài những doanh nghiệp xuất khẩu lớn, hiện tại nhiều doanh nghiệp sản xuất thủy sản trong nước điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị lạc hậu, chất lượng sản phẩm còn ở mức thấp, không ổn định. Đồng thời, vấn đề an toàn thực phẩm đã được các doanh nghiệp chú trọng nhưng nhận thức của nhiều nhà sản xuất, chế biến, tiêu thụ vẫn có quan điểm chất lượng sản phẩm nội địa không cần bằng chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Việc tôm bơm agar, cá nhiễm kháng sinh cấm, mực xử lý thuốc tẩy trắng… đã làm cho niềm tin của người tiêu dùng trong nước giảm sút mạnh.

+ Đối với mặt hàng trái cây: Trái cây sản xuất trong nước đang chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng với các loại trái cây nhập ngoại cả về giá và chất lượng. Theo đó, lượng trái cây ngoại nhập về Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng mạnh. Thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất trong 8 tháng đầu năm 2017 là Thái Lan (chiếm tới 60,7% thị phần), tiếp đến là Trung Quốc (chiếm 15,7%). Trong 8 tháng đầu năm 2017, giá trị nhập khẩu rau quả ở tất cả các thị trường đều tăng so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, thị trường nhập khẩu rau quả tăng nhiều nhất là Thái Lan (gấp hơn 2,8 lần), tiếp đến là Ấn Độ (gấp hơn 2,2 lần) và Hàn Quốc (tăng 70,8%). Ghi nhận từ thực tế cho thấy, thị trường Việt Nam đang nhập khẩu trái cây từ nhiều nước, trong đó Thái Lan đang là nhà cung cấp lớn nhất với các sản phẩm bòn bon, măng cụt, nhãn, mít... Nguyên nhân chính khiến nhập khẩu trái cây tăng mạnh trong thời gian qua chủ yếu là do lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do (FTA) về 0% cho các loại trái cây và đơn giản hóa thủ tục nhập khẩu hàng hóa. Riêng nhập khẩu trái cây từ Thái Lan ngày càng tăng mạnh, số lượng tăng hơn so với nhiều năm trước do Việt Nam tạm nhập sau đó tái xuất sang Trung Quốc (chiếm trên 90%, còn khoảng 10 được tiêu thụ trong nước).

Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân quan trọng tạo điều kiện trái cây ngoại chiếm lĩnh thị trường nội là do nhu cầu tiêu thụ trái cây của người tiêu dùng trong nước khá lớn, nhưng sản xuất trong nước không đáp ứng được về sản lượng cũng như chủng loại. Ngoài ra, cách làm “ăn xổi” của một bộ phận thương nhân đã làm giảm mạnh niềm tin về hình ảnh và thương hiệu trái cây nội trong mắt người tiêu dùng trong nước. Chẳng hạn như hành động ngâm rửa các loại trái sau thu hoạch với chất tạo chín nhanh tạo nên nỗi lo sợ không an toàn cho người tiêu dùng...

+ Trong lĩnh vực chăn nuôi: Tương tự như trái cây, niềm tin của người dân đối với sản phẩm chăn nuôi nội địa thấp hơn so với sản phẩm nhập ngoại, đồng thời sản phẩm thịt của Việt Nam đang phải cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài về giá. Hiện giá thành sản xuất thịt lợn của Việt Nam là 2,08 USD/kg, trong khi Mỹ là 1,41 USD/kg; thịt bò 2,53 USD/kg trong khi Australia 1,77 USD/kg. Ngoài ra, có hiện tượng mất cân đối cung - cầu, đặc biệt là mặt hàng thịt lợn vào cuối năm 2016 đến những tháng đầu năm 2017. Hoạt động quản lý an toàn thực phẩm còn yếu, việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thịt trong kênh phân phối còn hạn chế, đặc biệt khó khăn trong quản lý nguồn hàng cung ứng tại chợ. Bên cạnh đó, khâu phân phối lưu thông trên thị trường nội địa còn yếu kém, trong đó sự thao túng của thương nhân và giới vận chuyển hàng hóa, đã đẩy giá bán lên quá cao so với mức giá ban đầu.

Nguyên nhân của tình trạng trên là những rào cản, bất cập trong thể chế, quy định của ngành. Trước hết là bất cập trong quy định, thủ tục đầu tư, điều kiện kinh doanh. Đối với ngành chăn nuôi hiện thủ tục cấp phép đầu tư cho các vùng chăn nuôi và giết mổ tập trung phải tuân thủ qua 8 bước. Theo đó, nếu dự án thực hiện trên khu đất đã nằm trong vùng quy hoạch tập trung nhưng vẫn phải tuân thủ theo các bước này. Ngoài ra, đất đã vào khu quy hoạch tập trung không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng, không có tài sản thế chấp. Cùng với đó, sự không thống nhất và có quá nhiều quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh của cơ sở sản xuất, chế biến, bán buôn thực phẩm. Ví dụ như Nghị định 66/2016/NĐ-CP (điều 19, 21, 23), Luật ATTP (điều 19, 23), Luật Thú y (điều 69, 72), các quy định về điều kiện vệ sinh thú y địa phương khiến cho doanh nghiệp, cơ sở khó khăn trong cập nhật và tuân thủ.Ngoài ra, vấn đề quản lý giết mổ trong chăn nuôi cũng tồn tại những bất cập. Các chính sách quy hoạch và hỗ trợ phát triển các khu giết mổ tập trung chưa hiệu quả, chồng chéo, chưa hợp lý và chưa cập nhật bởi trùng với quy hoạch phân khu đô thị, xa các điểm phân phối thịt không phù hợp với quy hoạch nông thôn mới và tình hình phát triển của địa phương.

Nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản trên thị trường nội địa, trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp như sau:

+ Tuyên truyền, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tăng cường chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản. 

+ Đẩy mạnh quản lý thị trường, kiểm soát giá thành và giá bán các sản phẩm nông sản, giảm chi phí trung gian.

+ Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập – tái xuất nông sản..

+ Khơi thông các điều kiện cơ bản để phát triển thị trường (đặc biệt là thị trường hàng hóa chế biến có giá trị gia cao) như: cơ sở hạ tầng, kho bãi, dịch vụ hậu cần, hệ thống chuỗi kho lạnh; các dịch vụ công, tín dụng, bảo hiểm, thanh toán hiện đại dọc chuỗi cung ứng.

+ Đẩy mạnh gia tăng giá trị của các sản phẩm nông nghiệp thông qua liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn kết được từ sản xuất đến tiêu thụ, đảm bảo chất lượng mẫu mã, vị thế và vai trò của sản phẩm nông sản Việt Nam; đảm bảo cân đối cung - cầu, có thể truy xuất nguồn gốc, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm theo chuỗi.

Ngoài ra, riêng với sản phẩm lúa gạo, cần tập trung khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp phát triển và xây dựng thương hiệu, đăng ký bản quyền, đặc biệt đối với nhóm gạo đặc sản vùng miền; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các kênh phân phối gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa. Xem xét giảm thuế VAT từ 5% xuống 0% cho các doanh nghiệp kinh doanh gạo trên thị trường nội địa để khuyến khích phát triển gạo có thương hiệu, chất lượng, truy xuất nguồn gốc cho thị trường nội địa. Khuyến khích chuyển đổi diện tích đất lúa không hiệu quả sang các cây trồng mang lại thu nhập cao hơn cho người nông dân.

Với mặt hàng trái cây, các cơ quan quản lý cần quy hoạch lại hoạt động sản xuất, kinh doanh trái cây ở các địa phương để nâng cao năng lực cạnh tranh của trái cây nội trên thị trường, đồng thời tuyên truyền ý thức sản xuất và kinh doanh sản phẩm an toàn. Muốn đứng vững trên sân nhà, hoa quả tươi Việt Nam phải nâng cao chất lượng và bảo đảm an toàn thực phẩm.

Với sản phẩm ngành chăn nuôi, cần tiếp tục rà soát, quy hoạch lại các vùng chăn nuôi gắn với an toàn dịch bệnh, kiểm soát môi trường. Khuyến khích phát triển các mô hình chăn nuôi sạch an toàn, liên kết khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Kiểm soát chặt chẽ nguồn cung, áp dụng kinh nghiệm của các nước về phân vùng sản xuất với số lượng nhất định để hạn chế ô nhiễm và dư cung.

Với sản phẩm thủy sản, không ngừng nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu hàng thủy đặc sản của các địa phương; củng cố và phát triển tốt các chợ nông thôn, hình thành các chợ đầu mối nhằm khơi thông tốt thị trường. Chú ý đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng hàng hoá, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; cải tiến mẫu mã, bao bì để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Tuy nhiên, có thể nói giải pháp quan trọng nhất của toàn ngành đó là nâng cao chất lượng (từ độ an toàn đến mẫu mã) và đặc biệt là thương hiệu cho sản phẩm, để trước hết là tạo được niềm tin, chiếm lĩnh và đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Chỉ khi có được niềm tin của người tiêu dùng, thì các sản phẩm nông sản mới thực sự có chỗ đứng vững chắc tại thị trường nội địa.

Nguyễn Phúc Duy
Thông tin liên quan:
Depo 25 bonus 25
Depo 25 Bonus 25